Nhận thức chung về đô thị thông minh
Đến nay, thế giới vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về đô thị thông minh nhưng về cơ bản đều đề cập tới việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông, kết nối các cảm biến, mạng không dây tốc độ cao, xử lý dữ liệu lớn để nâng cao chất lượng cuộc sống trong đô thị, cải thiện chất lượng phục vụ của chính quyền thành phố, cải thiện mức độ hài lòng của dân cư, giảm tiêu thụ năng lượng, quản lý hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Qua tìm hiểu sự phát triển đô thị thông minh trên thế giới có thể thấy rõ việc phát triển đô thị thông minh rất khác nhau tùy thuộc trình độ phát triển, năng lực khoa học kỹ thuật và tiềm lực kinh tế của từng quốc gia. Các nước phát triển ở khu vực Châu Âu và Bắc Mỹ thường gắn sự thông minh vào các hệ thống cơ sở hạ tầng sẵn có, tập trung vào các khía cạnh mềm như quản trị thông minh, con người thông minh và tạo ra môi trường sống thông minh. Trái lại, các đô thị khu vực châu Á chú trọng nhiều hơn đến các lĩnh vực cơ sở hạ tầng cơ bản như giao thông, cấp thoát nước, môi trường hơn là các khía cạnh như quản trị, kinh tế và con người. Trên cơ sở thực tiễn và định hướng phát triển đô thị của Việt Nam cần xác định một nhận thức chung về đô thị thông minh, đó là:
- Đô thị thông minh là thông minh hóa đô thị thông qua các quá trình quy hoạch đô thị, quản trị đô thị và cung cấp các ứng dụng tiện ích đô thị nhằm nâng cao chất lượng sống, cải thiện chất lượng phục vụ của chính quyền thành phố tạo sự tham gia tích cực của các bên liên quan bao gồm: chính quyền, doanh nghiệp và người dân.
- Phát triển đô thị thông minh phải lấy mục tiêu trung tâm là con người, sử dụng tài nguyên hiệu quả, giải quyết các vấn đề trong quá trình đô thị hóa, nâng cao chất lượng dịch vụ, sử dụng công nghệ làm nền tảng cho việc đáp ứng hiệu quả nhu cầu của con người một cách bền vững.
- Phát triển đô thị thông minh cần dựa trên cơ sở học tập kinh nghiệm quốc tế, có tầm nhìn xa ở quy mô quốc gia và phát triển theo lộ trình, nghiên cứu thí điểm phù hợp với điều kiện thực tế địa phương trước khi nhân rộng, tránh chạy theo phong trào.
- Các hệ thống thông tin trong quá trình phát triển đô thị thông minh cần phải tuân thủ khung kiến trúc công nghệ thông tin và các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật nhằm đảm bảo khả năng kết nối và liên thông giữa các hệ thống khác nhau.
Thực trạng và thách thức phát triển đô thị thông minh
Phát triển và tăng trưởng đô thị ở nước ta nhìn chung là muộn và chậm hơn so với một số nước trong khu vực. Tốc độ đô thị hóa toàn quốc tuy nhanh nhưng mức độ còn nhỏ và phạm vi phân tán. Đô thị có sự phát triển không đồng đều giữa các vùng và chênh lệch nhiều giữa các khu vực khác nhau về đặc điểm địa lí, cụ thể như khu vực đồng bằng, duyên hải phát triển nhanh hơn vùng núi, vùng cao. Tính đến năm 2018, cả nước đã có hơn 800 đô hị với trình độ phát triển khác nhau, chia theo 5 loại đô thị từ loại I đến loại V và 2 đô thị loại đặc biệt. Dân cư đô thị chủ yếu tập trung ở các đô thị lớn, trong đó 19 đô thị loại đặc biệt và loại I chiếm trên 50% dân số đô thị cả nước.
Chính vì mật độ dân số đông, nên các thành phố lớn đang phải chịu đựng sự quá tải về hạ tầng kỹ thuật, do các dòng di cư từ các địa phương vào đô thị lớn, gây nguy cơ bệnh “đầu to”, phát triển đô thị thiếu bền vững. Trong khi đó, các đô thị nhỏ loại IV, loại V chiếm khoảng 90% số lượng đô thị có điều kiện hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội còn đơn giản, quy mô dân số thấp, đó là: sự yếu kém trong công tác quy hoạch và quản lý phát triển đô thị; sự quá tải của hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và dịch vụ đô thị; việc bảo vệ tài nguyên đất đai, năng lượng nguồn nước ngầm, không gian xanh và môi trường; vấn đề việc làm và thu nhập cho dân cư; vấn đề nhà ở , cung cấp lương thực, thực phẩm; khả năng chống chịu và ứng phó với biến đổi khí hậu…
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và truyền thông với những năng lực mới do công nghệ đem lại như điện toán đám mây, kết nối và đo lường trực tuyến, xử lý dữ liệu lớn khi ứng dụng công nghệ nhận dạng, công nghệ số, di động, và internet vạn vật giúp đô thị xây dựng các chiến lược thích ứng mới nhằm tối ưu hóa sử dụng tài nguyên và năng lượng, nâng cao khả năng ứng phó và chống chịu với thách thức, phối hợp giải quyết các vấn đề ở quy mô lớn hơn, toàn diện hơn và kịp thời hơn. Do vậy, phát triển đô thị thông minh là giải pháp hữu hiệu nhằm thúc đẩy phát triển đô thị nhanh hơn, bền vững hơn. Tuy nhiên, Việt Nam đang ở giai đoạn mới tiếp cận, chưa triển khai trên diện rộng một cách toàn diện về đô thị thông minh, chưa thực sự nắm bắt và kiểm soát đầy đủ các vấn đề rủi ro, hạn chế của việc ứng dụng công nghệ thông tin để giải quyết các vấn đề đô thị. Do vậy, để có thể phát huy hiệu quả tối ưu của các đầu tư thông minh hóa đô thị phải có năng lực đạt mức độ khá trở lên về cung cấp dịch vụ hạ tầng kỹ thuật đô thị (từ đô thị loại III trở lên) để từ đó, đô thị có khả năng phát huy tối đa tiềm năng của việc ứng dụng các giải pháp đô thị thông minh.
Trong bối cảnh xuất phát điểm của hệ thống cơ sở hạ tầng đô thị tại Việt Nam đang ở mức thấp, cơ cấu tổ chức xã hội còn nhiều sự chồng chéo, việc phát triển đô thị thông minh nếu nhìn trên tổng thể sẽ gặp phải thách thức ở hầu hết các khía cạnh của đô thị. Tuy nhiên, nếu đi vào phân tích, đánh giá những thách thức trong phát triển đô thị thông minh tại Việt Nam, có thể thấy rõ 3 thách thức chủ yếu sau:
+ Hệ thống cơ sở dữ liệu đô thị: Công tác quản lý cơ sở dữ liệu đô thị ở Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế, đang ở mức độ khá sơ khai. Đó là do nguồn số liệu đô thị hiện nay đang bị phân tán từ nhiều ngành khác nhau như Tài nguyên Môi trường, Giao thông vận tải, Xây dựng, Tổng cục thống kê… và ở các địa phương. Các chỉ tiêu thống kê đánh giá phát triển đô thị thuộc nhiều ngành, lĩnh vực được thiết kế phục vụ các mục tiêu khác nhau, phương pháp thu thập, tính toán dữ liệu còn cần những chuẩn hóa trước khi áp dụng triển khai trên nền tảng số hóa. Thể chế và cơ cấu tổ chức thực hiện công tác thống kê hiện nay cũng là hạn chế lớn trong việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đô thị. Hiện nay, chưa có một văn bản pháp luật cụ thể quy định về công tác thu thập dữ liệu cho khu vực đô thị, đồng thời một số ngành, lĩnh vực cũng không có cán bộ chuyên trách để thực hiện công tác này dẫn đến các dữ liệu đô thị còn thiếu độ tin cậy, thậm chí là thiếu dữ liệu.
+ Nguồn lực đầu tư phát triển: Phát triển đô thị thông minh yêu cầu phải có nguồn lực đầu tư lớn, trong khi ngân sách nhà nước còn hạn hẹp và phải chia sẻ cho nhiều lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội khác nhau. Thách thức đặt ra ở đây đối với các cơ quan quản lý nhà nước là giữ vai trò điều phối các nguồn lực, xây dựng định hướng, chiến lược, kế hoạch phát triển dài hạn và khung quản lý thống nhất toàn quốc, hạn chế tối đa việc thay đổi điều chỉnh sẽ dẫn đến lãng phí nguồn lực đầu tư, thử nghiệm những mô hình hợp tác công tư hiệu quả trong phát triển đô thị thông minh nhằm khắc phục vấn đề thiếu hụt nguồn lực đầu tư từ nhà nước.
+ Cơ chế chính sách: Thực tiễn tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay còn nhiều vấn đề bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu của quản trị đất nước trong thời đại công nghệ số. Phát triển đô thị thông minh để hướng đến mục tiêu giảm thủ tục thực hiện cũng như mở ra nhiều phương thức hoạt động của xã hội phát triển trên nền tảng công nghệ. Trong khi lĩnh vực phát triển đô thị bao gồm hầu hết các lĩnh vực của phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, do đó để kìm hãm sự phát triển yêu cầu hệ thống chính sách quản lý nhà nước phải thay đổi để phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Cơ hội phát triển đô thị thông minh
Những thách thức kể trên không thể ngăn được xu thế chung của thế giới cũng như khả năng tiếp cận của Việt Nam trong xu thế hội nhập hướng tới nền kinh tế tri thức. Điều này có thể thấy rõ qua sự phát triển vượt bậc của hạ tầng viễn thông và dịch vụ viễn thông Việt Nam những năm gần đây khi có thứ hạng cao trên bản đồ công nghệ thông tin thế giới trong ngành dịch vụ công nghệ thông tin, dịch vụ gia công phần mềm, dịch vụ gia công quy trình; đứng đầu về chỉ số kinh tế ứng dụng di động trong 6 nước phát triển khu vực ASEAN. Chỉ số Chính phủ điện tử của Việt Nam được Liên hợp quốc xếp hạng thuộc nhóm các nước có chỉ số phát triển cao đứng thứ 89/193 quốc gia; chỉ số sẵn sàng kết nối của Việt Nam năm 2016 đạt 79/139 nước; khả năng tiếp cận các dịch vụ công nghệ thông tin, Việt Nam được đánh giá rất cao, đứng thứ 3/139 nước trong khi đó giá cước dịch vụ Internet băng rộng cố định tại Việt Nam đang ở mức thấp nhất thế giới với vị trí xếp hạng 1/139 nước. Đây là tiền đề quan trọng cho việc phát triển của các dịch vụ internet vạn vật tại Việt Nam. Việt Nam với nền tảng dân số trẻ, tầng lớp trung lưu ngày càng gia tăng, nguồn lao động lành nghề với chi phí cạnh tranh là lợi thế rất lớn để Việt Nam trở thành một trung tâm chế tạo mới của thế giới. Nền chính trị ổn định với những định hướng chính sách thu hút đầu tư rõ ràng và có điều kiện phát triển đa dạng, do đó có nhiều cơ hội để đẩy nhanh tiến trình phát triển trong kỷ nguyên của công nghệ số. Tốc độ đô thị hóa tăng nhanh, khu vực đô thị luôn gắn liền với vị trí địa lí thuận lợi về tài nguyên trong phát triển du lịch, với lịch sử phát triển lâu đời nhiều đô thị có giá trị văn hóa nổi bật làm tiền đề cho sự cạnh tranh phát triển kinh tế xã hội từng đô thị từng vùng và quốc gia.
Trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý nhà nước và công tác quy hoạch, quản lý đô thị và nông thôn, Việt Nam cũng đã đạt được nhiều thành tựu. Có thể kể ra những công cụ đang dần được hoàn thiện như hệ thống thông tin địa lí; công cụ đánh giá thị trường đất đai; hệ thống thông tin đất đai; hệ thống thông tin quản lý và các ứng dụng khác.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính và khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã bắt đầu nghiên cứu và phát triển một số dịch vụ tiện ích hướng đến phát triển đô thị thông minh. Các doanh nghiệp này cũng nhìn nhận việc phát triển đô thị thông minh là một thị trường mới, nhiều tiềm năng chưa được khai thác. Không chỉ có các doanh nghiệp trong nước, các doanh nghiệp nước ngoài cũng đang tích cực tham gia phát triển đô thị thông minh tại Việt Nam. Qua những chuyển động của doanh nghiệp có thể nhận thấy rằng phát triển đô thị thông minh có tiềm năng thương mại lớn, do đó có nhiều khả năng thu hút được nguồn vốn xã hội để đầu tư. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm mô hình đầu tư hiệu quả sao cho cân đối hài hòa lợi ích gữa ba chủ thể chính sách trong phát triển đô thị thông minh là doanh nghiệp - người dân - chính quyền.
Kết luận
Đô thị thông minh là một hướng phát triển còn khá mới mẻ ở Việt Nam, hiện tại có một số địa phương đã xây dựng kế hoạch phát triển đô thị thông minh nhưng chủ yếu là mang tính chất tự phát theo xu hướng chung của thời đại. Thủ tướng Chính phủ đã có những chỉ đạo ban đầu về định hướng phát triển đô thị thông minh ở Việt Nam phải phù hợp với xu thế cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, tránh theo phong trào, lãng phí. Thủ tướng cũng đã giao Bộ Xây dựng, Bộ Thông tin và truyền thông phối hợp nghiên cứu để có những hướng dẫn thống nhất cho các địa phương trong lĩnh vực này.
Việc xây dựng đô thị thông minh ở Việt Nam cần phù hợp với Quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị Việt Nam và Chương trình phát triển đô thị quốc gia, giải quyết được những tồn tại, khó khăn, thách thức trong quá trình phát triển đô thị hướng đến các mục tiêu tăng trưởng xanh và bền vững. Do vậy, cần thiết phải nhanh chóng xây dựng, hoàn thiện hành lang pháp lý, các quy phạm pháp luật, quy chuẩn tiêu chuẩn cũng như những cơ chế khuyến khích đầu tư cho việc phát triển đô thị thông minh. Bên cạnh đó là việc xây dựng cơ sở dữ liệu không gian quy hoạch - phát triển đô thị liên ngành phục vụ công tác quản lý và hỗ trợ người dân - doanh nghiệp. Ngoài ra, để việc phát triển đô thị thông minh đạt được hiệu quả cao, có lẽ cũng cần nghiên cứu xây dựng thí điểm tại một vài địa điểm cụ thể nhằm phát hiện ra những vướng mắc trong có chế để bổ sung, sửa đổi; thu hút đầu tư; khuyến khích phát triển sản xuất phần cứng, phần mềm cũng như đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ công tác phát triển đô thị thông minh.
Xây dựng